Dấu hiệu:
Bệnh sẽ xuất hiện chung đặc điểm điển hình là sốt cao trên 40- 42oC, các phần da mỏng thường bị đỏ lên. Heo nhiễm bệnh có lúc bị táo bón, lúc lại tiêu chảy, bị viêm phổi nặng, đặc biệt là ở heo con cai sữa do đó những biểu hiện về đường hô hấp thường rõ nét.
Trên heo nái có chửa thường bị sẩy thai vào giai đoạn cuối hoặc thai chết lưu, đẻ sớm khoảng 2-3 ngày. Heo nái nuôi con có dấu hiệu biếng ăn, lười uống nước, mất sữa và viêm vú (triệu chứng điển hình), da biến màu, lờ đờ hoặc hôn mê, thai gỗ (10-15% thai chết trong 3-4 tuần cuối của thai kỳ), heo con chết ngay sau khi sinh (30%), heo con yếu, tai chuyển màu xanh (khoảng dưới 5%) và duy trì trong vài giờ.
Heo đực giống bỏ ăn, sốt, đờ đẫn hoặc hôn mê, giảm hưng phấn hoặc mất tính dục, lượng tinh dịch ít, chất lượng tinh kém và cho lợn con sinh ra nhỏ.
Heo con theo mẹ thể trạng gầy yếu, nhanh chóng rơi vào trạng thái tụt đường huyết do không bú được, mắt có ghèn màu nâu, trên da có vết phồng rộp, tiêu chảy nhiều, giảm số lợn con sống sót, tăng nguy cơ mắc các bệnh về hô hấp, chân choãi ra, đi run rẩy, ...
Heo con cai sữa và heo choai: Chán ăn, ho nhẹ, lông xác xơ... tuy nhiên, ở một số đàn có thể không có triệu chứng. Ngoài ra, trong trường hợp ghép với bệnh khác có thể thấy viêm phổi lan toả cấp tính, hình thành nhiều ổ áp-xe, thể trạng gầy yếu, da xanh, tiêu chảy, ho nhẹ, hắt hơi, chảy nước mắt, thở nhanh, tỷ lệ chết có thể tới 15%.
Đường lây truyền bệnh
Virus PRRS có trong dịch mũi, nước bọt, phân, nước tiểu của lợn ốm hoặc mang trùng và phát tán ra môi trường. Đặc biệt, tinh dịch của lợn đực giống cũng được xác định là nguồn phát tán mầm bệnh, virus ở tinh dịch có thể lây nhiễm sang cho bào thai. Ở lợn mẹ mang trùng, virus có thể lây nhiễm cho bào thai từ giai đoạn giữa thai kỳ trở đi và virus cũng được bài thải qua nước bọt và sữa. Virus có thể phát tán, lây lan thông qua hình thức trực tiếp như tiếp xúc với heo ốm, heo mang trùng, theo gió (có thể đi xa 3 km), phân, nước tiểu, bụi, bọt nước, thụ tinh nhân tạo và có thể do một số loài chim hoang dã; hình thức gián tiếp như qua dụng cụ chăn nuôi và dụng cụ bảo hộ lao động nhiễm trùng. Đặc biệt heo trưởng thành có thể bài thải virút trong vòng 14 ngày, heo con và heo choai trong 1 -2 tháng.
Cách phòng trị
Hiện nay, vẫn chưa có thuốc đặc trị để điều trị bệnh này. Nên vấn đề nóng bỏng hiện nay đối với người chăn nuôi là phòng chống bệnh bằng cách nào và nếu khi heo đã mắc bệnh thì chữa trị sao cho hiệu quả?
Căn cứ vào đặc điểm truyền lây và sự phát tán rất nhanh của mầm bệnh (vì mầm bệnh có thể phát tán qua gió) nên việc chủ động phòng ngừa bệnh bằng các biện pháp sinh học là khâu chủ yếu đối với các trang trại chăn nuôi trong giai đoạn hiện nay: chuồng trại phải thoáng mát về mùa hè, ấm vào mùa đông, tăng cường chế độ dinh dưỡng, mua con giống từ những cơ sở đảm bảo, thiết lập hệ thống chuồng nuôi cách ly ít nhất 8 tuần, hạn chế khách tham quan, sử dụng bảo hộ lao động, dụng cụ chăn nuôi sử dụng riêng biệt cho mỗi khu vực trại không di chuyển qua lại trại khác, thực hiện “cùng nhập, cùng xuất”, để trống chuồng, thường xuyên tiêu độc, khử trùng chuồng nuôi, ...
Một biện pháp phòng ngừa bệnh hiệu quả hiện nay đang là vấn đề thời sự là tiêm phòng vắc-xin. Hiện có vắc-xin nhược độc dùng cho heo con sau cai sữa, heo nái không mang thai, heo hậu bị. Vắc-xin chết dùng cho heo giống cũng đem lại hiệu quả phòng bệnh cao. Hiện nay đã có các loại văcxin như Porcilis PRRS của Intervet- Hà Lan, Amervac PRRS của Hipra - Tây Ban Nha , Vắc xin PRRS của AVAC, HANVET cũng cho kết quả rất tốt
Điều trị :
Bệnh tai xanh do virus gây ra nên không có thuốc điều trị đặc hiệu. Lợn bị mắc bệnh được xử lý như sau ( theo TT số 07/2016/ TT-BNNPTNT ngày 31/05/2016 ):
“ Tiêu hủy ngay lợn chết do bệnh.
- Đối với các ổ dịch nhỏ lẻ mới xảy ra trên địa bàn: Khuyến khích tiêu hủy lợn mắc bệnh để giảm thiểu nguy cơ dịch lây lan rộng, cách ly triệt để lợn chưa bị mắc bệnh để theo dõi; khuyến khích giết mổ tiêu thụ chỗ đối với lợn khỏe mạnh trong cùng đàn với lợn mắc bệnh.
- Đối với trường hợp dịch xảy ra ở diện rộng: Tiêu hủy số lợn mắc bệnh nặng (lợn mắc bệnh nặng là những lợn có bệnh, đã được chăm sóc tích cực, được hỗ trợ tăng cường sức đề kháng trong vòng 07 ngày nhưng không có khả năng bình phục), nuôi cách ly triệt để lợn mắc bệnh nhẹ để theo dõi chặt chẽ diễn biến bệnh; khuyến khích giết mổ tiêu thụ tại chỗ đối với lợn khỏe mạnh trong cùng đàn với lợn mắc bệnh, trường hợp không giết mổ phải nuôi cách ly để theo dõi.
- Việc xử lý lợn mắc bệnh phải được thực hiện ngay khi có kết quả xét nghiệm dương tính với bệnh tai xanh hoặc được cơ quan quản lý chuyên ngành thú y địa phương kiểm tra, xác minh và kết luận lợn bị mắc bệnh tai xanh. Xử lý lợn mắc bệnh theo hướng dẫn tại Phụ lục 06 được ban hành kèm theo Thông tư này.”
Tuy nhiên, nếu nâng cao sức đề kháng, chống nhiễm trùng kế phát và đặc biệt hạ sốt tốt (tránh để lợn sốt cao liên tục dẫn đến suy kiệt và chết) thì hiệu quả điều trị bệnh cao. Với những trại đang xảy ra dịch thực hiện theo các bước sau (phác đồ tham khảo):
- Loại bỏ những lợn bệnh quá nặng, tách những con bỏ ăn ra chuồng riêng (nếu có thể);
- Tuyệt đối không nhập lợn khỏe - lợn vừa cai sữa vào khu vực lợn bị bệnh;
- Giãn mật độ nuôi tối đa;
- Không tắm lợn đang có dấu hiệu bệnh mà chỉ rửa chuồng, tích cực vệ sinh;
- Sát trùng chuồng trại ngày 1-2 lần;
- Pha thuốc giảm sốt như Para-C, paracetamol vào nước cho uống khi đàn lợn có triệu chứng sốt cao;
- Một tuần một lần cho uống thuốc giải độc gan thận, uống liên tục 2 ngày liền như Sorbitol, Boganic, Superliv, Phoretic,...
- Sử dụng cám thuốc có kháng sinh cho đến khi hết bệnh (1-2 tháng )