1. Nguyên nhân
Bệnh do 2 loài sán có tên là Fasciolagigantica và Fasciola heptica gây ra, chúng ký sinh ở gan, mật và tác động xấu đến vật nuôi.
Hình thái:
- Sán Fasciola gigantica: Cơ thể dẹp, hình lá, màu đỏ nâu; có 2 giác bám: Giác miệng và giác bụng.
- Sán Fasciola hepatica: hình dạng và màu sắc giống loài trên nhưng ngắn hơn, sau đầu có hai vai phình rộng ra.
Vòng đời: Sán lá trưởng thành sống trong các ống dẫn mật, đẻ trứng. Trứng theo ống dẫn mật về ruột rồi thải ra ngoài theo phân. Khi trứng gặp được các điều kiện thuận lợi như: rơi vào nước, thời tiết nóng ẩm thì trứng sẽ nở thành mao ấu, di chuyển trong nước. Mao ấu tìm và chui vào cơ thể ký chủ trung gian là các loài ốc nhỏ, không có nắp, sống phổ biến ở ao hồ, mương máng, ruộng trũng. Trong ốc mao ấu phát triển thành vĩ ấu và chui ra khỏi ốc. Vĩ ấu ra ngoài tự nhiên, rụng đuôi, biến thành “kén” tức ấu trùng cảm nhiễm. Kén trôi nổi trong nước hoặc bám vào các loài cây thủy sinh, khi gia súc uống nước, ăn phải cỏ, rau có kén sẽ nhiễm sán lá gan. Vào cơ thể ký chủ màng kén bị phân hủy và giải phóng ấu trùng. Ấu trùng tiếp tục di chuyển đến ống dẫn mật, ở lại đó và phát triển đến giai đoạn trưởng thành.
Thời gian từ khi con vật nuốt phải kén đến khi thành sán trưởng thành khoảng 3 tháng. Một sán lá trưởng thành có thể sống trong ống dẫn mật của gan khoảng 3 - 11 năm.
1-Sán lá ký sinh trong cơ thể; 2- Trứng sán; 3- Mao ấu; 4, 5 ,6- (Bào ấu, lôi ấu, vĩ ấu ký sinh trong ốc); 7- Nang ấu (bám vào cỏ).
2. Đặc điểm dịch tễ
Bệnh xảy ra ở tất cả các loài nhai lại.
Trâu, bò bị nhiễm bệnh nặng hơn và ở mọi lứa tuổi. Tỷ lệ trâu, bò nhiễm bệnh ở miền núi khoảng 30 - 35 %, vùng đồng bằng khoảng 40 - 70 %.
Bê, nghé non bị bội nhiễm sẽ phát bệnh ở thể cấp tính.
Với điều kiện khí hậu ở nước ta, bệnh có thể xảy ra quanh năm. Hầu hết tất cả các trâu, bò nhập nội đều mắc bệnh sán lá gan, kể cả bò sữa. Trâu, bò nhiễm sán lá gan khi gặp điều kiện không thuận lợi như: làm việc nặng, thiếu thức ăn thô xanh, thời tiết lạnh vào vụ Đông – Xuân sẽ dễ phát bệnh và người chăn nuôi thường nhầm lẫn là bệnh truyền nhiễm.
3. Triệu chứng
- Thể cấp tính:
Trâu, bò bỏ ăn, chướng hơi dạ cỏ, sau đó ỉa chảy dữ dội, phân lỏng màu vàng xám, mùi tanh. Chỉ vài ngày sau, súc vật bệnh nằm bệt không đi lại được, nếu không được điều trị kịp thời con vật có thể chết trong tình trạng mất nước, rối loạn điện giải và kiệt sức.
Hiện tượng này thường xảy ra ở bê, nghé dưới 1 năm tuổi.
- Thể mãn tính:
Trâu, bò bị bệnh sẽ gầy dần, cơ thể suy nhược, ăn ít, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù, dễ rụng, thường thủy thũng ở mi mắt, yếm ngực, nhai lại yếu, thiếu máu, chướng bụng nhẹ, ỉa chảy kéo dài, có khi ỉa táo bón, đôi khi có triệu chứng thần kinh. Gia súc cái mất dần khả năng sinh sản và cho sữa. Trâu, bò cho sữa bị bệnh thì lượng sữa giảm tới 20 – 50%. Trâu, bò có thể chết do kiệt sức.
Chú ý:
Người chăn nuôi cũng cần phân biệt các triệu chứng trên với bệnh ký sinh trùng đường máu đó là: trâu bò mắc bệnh ký sinh trùng đường máu cũng có các biểu hiện như: gầy yếu, thiếu máu, sản lượng sữa giảm, hoàng đản, tiêu chảy. Nhưng bệnh ký sinh trùng đường máu trâu, bò thường sốt 40 – 42°C, khi sốt cao thường thể hiện triệu chứng thần kinh: quay cuồng, đi vòng tròn, run rẩy từng cơn. Trong khi bệnh sán lá gan trâu, bò thường ỉa chảy kéo dài, viêm ruột, phân lỏng xám có mùi tanh.
4. Bệnh tích
Sán non trong quá trình di hành làm tổn thương mô gan, viêm gan nhiễm khuẩn, gây hiện tượng viêm túi mật, tắc ống dẫn mật, tổn thương niêm mạc ruột non.
Sán lá trưởng thành sống trong các ống dẫn mật, thường xuyên kích thích niêm mạc ống mật, mật bị ứ lại thấm vào máu gây chứng hoàng đản.
Ngoài việc gây tổn thương gan, sán trưởng thành hút chất dinh dưỡng, hút máu trâu, bò để lớn, đồng thời tiết độc tố gây rối loạn tiêu hóa, viêm ruột, làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe trâu, bò và dẫn đến tử vong do kiệt sức.
5. Chẩn đoán
Chẩn đoán lâm sàng: Phương pháp này thường gặp khó khăn do các dấu hiệu thường không điển hình. Người nuôi có thể dựa vào một số triệu chứng như: Hiện tượng thiếu máu đi cùng với tính vô cảm, ăn kém ngon miệng, gầy, da hơi vàng; Xuất hiện ỉa chảy và cuối cùng, trong những trường hợp trầm trọng, phát triển phù thũng và gia súc yếu dần. Khi sờ vào sườn bên phải gây ra cảm giác đau rõ ràng.
Kiểm tra phân: Nhằm phát hiện những trứng đặc trưng của sán lá gan trong phân. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có tác dụng trong trường hợp gia súc bị bệnh ở thể mãn tính. Hơn nữa, việc sản sinh ra trứng ngắt quãng, không liên tục, tùy thuộc vào việc thải dịch từ túi mật và sinh học của ký sinh trùng. Vì vậy, nên lặp lại kiểm tra để chẩn đoán bệnh theo cách này và lấy mẫu đại diện một số gia súc trong cùng một đàn.
Kiểm tra huyết thanh học: Gần đây những kỹ thuật huyết thanh học đã được phát triển và áp dụng để chẩn đoán, nghiên cứu dịch tễ bệnh sán lá gan. Chủ yếu là xét nghiệm ELISA để phát hiện các kháng thể lưu hành. Phương pháp này giúp phát hiện được gia súc bị nhiễm bệnh trong thời kỳ trước khi sán trưởng thành, trước khi trứng được bài tiết ra và khả năng kiểm tra một số lượng mẫu lớn. Một số khó khăn của phương pháp này là chi phí, thiết bị cần thiết, thiếu độ mẫn cảm và sự tồn lưu kháng thể sau khi điều trị.
Chẩn đoán qua việc mổ khám: Sự có mặt của các sán lá gan trong ống mật, các tổn thương do các sán lá non di chuyển gây ra là những tổn thương đặc trưng của bệnh sán lá gan.
6. Phòng trị
Để điều trị bệnh, sử dụng thuốc viên HAN-DERTIL-B (1 viên/50 kg trọng lượng). Tốt nhất là cho trâu bò uống vào buổi sáng, uống xong có thể cho trâu, bò đi chăn thả bình thường.
Bên cạnh đó, cần kết hợp với thuốc bổ, vitamin, giải độc gan và chế độ dinh dưỡng tốt để gia súc nhanh hồi phục.
Định kỳ kỳ tẩy sán lá gan 2 lần/năm cho toàn đàn gia súc vào tháng 4 và tháng 8 hàng năm.
Người chăn nuôi cần làm tốt công tác vệ sinh thú y, tiêu độc khử trùng chuồng trại; diệt mầm bệnh ở trong môi trường tự nhiên: Sử dụng chế phẩm sinh học HAN PROWAY ủ phân để giảm trứng sán lá gan.